Would you like to inspect the original subtitles? These are the user uploaded subtitles that are being translated:
1
00:00:18,110 --> 00:00:23,110
Dịch phụ đề: Danngoc
Synctime: Duchuy2007.
2
00:00:25,000 --> 00:00:30,000
BÃO TÁP SÔ VIẾT
THẾ CHIẾN THỨ II Ở HƯỚNG ĐÔNG.
3
00:00:30,110 --> 00:00:33,110
Khi Hitler xâm lược
Liên bang Xô-viết năm 1941,
4
00:00:33,150 --> 00:00:36,110
mạng lưới điệp viên của Stalin
bị xáo trộn rối bời.
5
00:00:36,150 --> 00:00:39,110
Nhưng chẳng bao lâu sau,
tình báo Xô-viết bắt đầu đáp trả...
6
00:00:39,210 --> 00:00:44,110
Nguyên bản được sản xuất cho
Truyền hình Nga năm 2011.
Đây là câu chuyện về “Cuộc
Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại”
7
00:00:44,150 --> 00:00:48,110
của Nga và về chặng đường dài
của Hồng quân đi từ bại trận cho
đến chiến thắng.
8
00:00:52,000 --> 00:00:57,000
CUỘC CHIẾN BÍ MẬT.
9
00:00:57,110 --> 00:01:00,750
Ngày 21/6/1941, Maskva.
10
00:01:04,000 --> 00:01:08,310
Một đoàn tàu tốc hành từ Berlin
cập vào Ga Belorussia.
11
00:01:12,350 --> 00:01:14,660
Trên tàu có
Mikhail Vorontsov,
12
00:01:14,660 --> 00:01:17,950
Tùy viên hải quân của Đại sứ
quán Liên Xô ở Berlin.
13
00:01:18,260 --> 00:01:21,110
Anh xích tay mình
vào chiếc vali.
14
00:01:23,110 --> 00:01:28,310
Hai ngày trước, Vorontsov
nhận được một điện tín khẩn
từ Maskva
15
00:01:28,620 --> 00:01:31,200
ra lệnh anh phải
trở về lập tức.
16
00:01:32,660 --> 00:01:35,460
Một toán hộ tống đến
gặp anh trên sân ga,
17
00:01:35,460 --> 00:01:38,530
gồm một quan chức
của Dân ủy Ngoại vụ,
18
00:01:38,530 --> 00:01:42,820
đi cùng 2 sĩ quan
An ninh NKVD.
19
00:01:43,000 --> 00:01:46,000
“Khỏe không?”
“Nghiêm trọng vậy sao?”
20
00:01:46,000 --> 00:01:48,500
“Còn hơn thế. Cậu phải gặp
tận mặt mấy vị ấy mới được.”
21
00:01:53,920 --> 00:01:56,250
Một ôtô của chính phủ
đang đợi bên ngoài.
22
00:01:56,600 --> 00:01:58,800
Vorontsov được
ấn vào ghế sau,
23
00:01:58,800 --> 00:02:00,700
ngồi giữa hai sĩ quan
an ninh.
24
00:02:02,550 --> 00:02:06,350
Anh được thư giãn lần đầu tiên
kể từ khi rời Berlin.
25
00:02:06,550 --> 00:02:10,250
Chiếc vali của anh giờ đã
thuộc trách nhiệm của người khác.
26
00:02:11,400 --> 00:02:16,650
Mikhail Aleksandrovich Vorontsov
chiến đấu ở phe Bolshevik trong
thời Nội chiến Nga trước khi
27
00:02:16,820 --> 00:02:18,820
vào học Học viện Hải quân.
28
00:02:18,820 --> 00:02:21,950
Sau khi tốt nghiệp, anh được
đưa về Viễn Đông,
29
00:02:21,950 --> 00:02:25,620
tại đó anh vươn lên làm Phó
tham mưu trưởng Hạm đội
Thái Bình Dương.
30
00:02:26,050 --> 00:02:30,500
Năm 1939, anh được đưa tới Berlin
làm Tùy viên hải quân Liên Xô.
31
00:02:40,220 --> 00:02:43,950
Người lái dừng xe lại bên ngoài
Tháp Spatskaia,
32
00:02:44,370 --> 00:02:46,120
lối vào Điện Kremlin.
33
00:02:58,620 --> 00:02:59,820
10 phút sau,
34
00:02:59,820 --> 00:03:02,620
Mikhail Vorontsov bước vào
văn phòng của Stalin.
35
00:03:04,000 --> 00:03:08,450
Trong số các tài liệu anh
đem về từ Berlin, có bản sao
một điện tín
36
00:03:08,450 --> 00:03:11,000
mà anh được Tùy viên
hải quân Thụy Điển đưa cho.
37
00:03:11,950 --> 00:03:15,720
Điện tín có tiêu đề
Đề nghị chính thức của Berlin
38
00:03:16,000 --> 00:03:19,970
đề cập tới tuyến di chuyển của
tàu chiến và máy bay Thụy Điển
ở Biển Baltic
39
00:03:19,970 --> 00:03:24,950
sau ngày 22/6/1941,
để tránh va chạm với họ
40
00:03:24,950 --> 00:03:27,850
trong trường hợp có
chiến tranh với Liên Xô.
41
00:03:30,870 --> 00:03:34,220
Công tác tình báo Xô-viết
được tiến hành cả hợp pháp
42
00:03:34,220 --> 00:03:38,250
thông qua các điệp viên đi lại
bằng passport Xô-viết, lẫn bất
hợp pháp qua các điệp viên
43
00:03:38,250 --> 00:03:40,600
dùng giấy tờ giả.
44
00:03:44,700 --> 00:03:46,850
Công tác tình báo
nước ngoài
45
00:03:46,850 --> 00:03:49,020
được thực hiện bởi mạng lưới
gọi là “các trú sứ”.
46
00:03:49,020 --> 00:03:52,900
Mọi thành viên của một
“trú sứ” dù làm việc hợp pháp
hay bất hợp pháp
47
00:03:53,000 --> 00:03:57,450
đều có nhiệm vụ riêng biệt.
Một điệp viên sẽ tuyển dụng và
điều hành các điệp viên địa phương,
48
00:03:57,650 --> 00:04:00,350
một điệp viên khác chịu
trách nhiệm liên lạc điện đài,
49
00:04:00,570 --> 00:04:04,150
một người nữa làm liên lạc viên
chuyển tài liệu,
50
00:04:04,520 --> 00:04:07,970
còn bản thân “trú sứ” sẽ điều phối
toàn bộ hoạt động của nhóm.
51
00:04:11,920 --> 00:04:13,470
Từ đầu thập niên 1920,
52
00:04:13,570 --> 00:04:16,870
tình báo Xô-viết đã bắt đầu
thiết lập các “trú sứ” hợp pháp
53
00:04:16,870 --> 00:04:21,500
và bất hợp pháp trên khắp Châu Âu.
Sau năm 1933,
54
00:04:21,500 --> 00:04:24,950
và khi Hitler ngoi lên
nắm quyền ở Đức, đã thấy rõ
55
00:04:24,950 --> 00:04:28,200
quốc gia nào là mối đe dọa
lớn nhất cho Liên bang Xô-viết.
56
00:04:28,770 --> 00:04:32,500
Do đó, nhiều điệp viên Xô-viết
được đưa lại vào nước Đức Quốc Xã
57
00:04:32,600 --> 00:04:36,750
để thu thập thông tin về tiềm năng
quân sự và dự tính của nước này.
58
00:04:41,920 --> 00:04:44,250
Sau khi chiến tranh nổ ra
năm 1939,
59
00:04:44,250 --> 00:04:47,500
con số trú sứ Xô-viết
bất hợp pháp ở Đức
60
00:04:47,500 --> 00:04:49,970
tăng 50 %.
61
00:04:53,000 --> 00:04:55,250
Những mạng lưới tương tự
cũng hoạt động ở Bỉ,
62
00:04:55,250 --> 00:04:58,670
Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp,
63
00:04:58,670 --> 00:05:02,170
Nhật, Bulgaria và Nam Tư.
64
00:05:05,320 --> 00:05:09,750
Các trú sứ tình báo quân sự
hoạt động hợp pháp tại nhiều nước.
65
00:05:09,770 --> 00:05:13,420
Mỗi điệp viên đều có vỏ bọc
trong sứ quán Liên Xô
66
00:05:13,470 --> 00:05:16,300
hay ở chung với một
phái đoàn Xô-viết nào đó.
67
00:05:18,070 --> 00:05:22,650
Người điệp viên có thể là một
quan chức ngoại giao, là lái xe
hay chuyên viên kỹ thuật.
68
00:05:23,000 --> 00:05:26,350
“Trước tiên ta tới Đại lộ
Sevastopol. Vào thăm Jacqueline.”
69
00:05:29,400 --> 00:05:32,400
“Sau đó chở tôi
tới Phố Trakoder.”
70
00:05:37,650 --> 00:05:39,550
Tháng 6/1941,
71
00:05:39,550 --> 00:05:44,770
Phòng Tình báo quân sự trung tâm
đã tuyển dụng được 914 người
ở hải ngoại,
72
00:05:44,770 --> 00:05:48,550
316 trong số đó làm cộng
tác viên với trú sứ hợp pháp
73
00:05:48,550 --> 00:05:52,320
còn 598 người là hoạt động
bất hợp pháp.
74
00:05:55,100 --> 00:05:57,200
Thậm chí cả Stalin cũng chỉ biết
phần lớn những người này
75
00:05:57,200 --> 00:06:02,470
qua mật danh. Bản thân ông
cũng có quá đủ kinh nghiệm
về hoạt động bí mật,
76
00:06:02,490 --> 00:06:06,000
để hiểu rằng tên một điệp viên
bị đề cập càng nhiều lần,
77
00:06:06,500 --> 00:06:08,770
thì anh ta càng gặp
nhiều nguy hiểm.
78
00:06:11,920 --> 00:06:16,250
Kể từ mùa thu 1940, ngày càng
có nhiều báo cáo cảnh báo
79
00:06:16,250 --> 00:06:21,650
về việc tập trung quân Đức
dọc biên giới Đức-Xô ở Ba Lan.
80
00:06:23,470 --> 00:06:27,850
Tình báo quân sự Xô-viết nỗ lực
tìm trả lời cho câu hỏi,
81
00:06:27,850 --> 00:06:30,820
liệu Hitler có tấn công
và nếu có,
82
00:06:31,200 --> 00:06:31,970
thì khi nào.
83
00:06:34,100 --> 00:06:36,300
Các báo cáo tới tấp cung cấp
những thời điểm khác nhau
84
00:06:36,300 --> 00:06:39,300
về cuộc xâm lược Liên Xô
của Đức.
85
00:06:39,850 --> 00:06:43,870
Ban đầu, họ cho rằng sẽ
diễn ra vào tháng 3 hay 4/1941.
86
00:06:43,870 --> 00:06:48,300
Sau đó có báo cáo mới
rằng sẽ hoãn đến mùa hè,
87
00:06:48,300 --> 00:06:50,620
nhưng tùy thuộc nước Anh
có đầu hàng hay không.
88
00:06:52,750 --> 00:06:57,070
Rồi có tin mới toanh rằng
sẽ hoãn đến năm 1942.
89
00:06:59,670 --> 00:07:02,500
Tình hình còn phức tạp thêm
bởi thực tế rằng
90
00:07:02,500 --> 00:07:05,370
người duy nhất biết
chính xác dự tính của Hitler
91
00:07:05,950 --> 00:07:09,270
chỉ có chính Adolf Hitler.
Ông ta chỉ ký lệnh thông qua
92
00:07:09,270 --> 00:07:13,620
Chiến dịch Barbarossa xâm lược
Liên bang Xô-viết
93
00:07:13,750 --> 00:07:16,050
ngày 10/6/1941,
94
00:07:16,120 --> 00:07:18,770
12 ngày trước giờ thực hiện.
95
00:07:20,970 --> 00:07:22,400
Ngày 18/6, Maskva bắt đầu
96
00:07:22,400 --> 00:07:25,970
nhận được báo cáo từ
điệp viên K (xin lỗi danngoc
không thể tìm ra tên gọi này):
97
00:07:25,970 --> 00:07:29,450
“Các đơn vị lục quân Đức đang
chuẩn bị chuyện gì đó rất lớn. ..."
98
00:07:29,450 --> 00:07:33,150
"... Rõ ràng không phải chuyện
vài tháng hay vài tuần, ..."
99
00:07:33,150 --> 00:07:34,350
"... mà là vài ngày nữa thôi.”
100
00:07:36,150 --> 00:07:40,220
Nhưng mặc dù có cảnh báo,
tình báo Xô-viết vẫn không thể
101
00:07:40,220 --> 00:07:43,700
khẳng định chính xác điều gì,
kể cả bức điện tín Thụy Điển
102
00:07:43,700 --> 00:07:47,370
của Vorontsov.
103
00:07:53,520 --> 00:07:55,250
Chỉ vài tuần sau,
104
00:07:55,300 --> 00:07:58,920
Vorontsov sẽ được thăng làm
Tham mưu trưởng Tình báo Hải quân,
105
00:07:58,970 --> 00:08:01,970
và đến tháng 9, ông thành
Trưởng ban tình báo.
106
00:08:02,770 --> 00:08:05,800
Đây là công việc ông sẽ
nắm giữ thêm 10 năm nữa,
107
00:08:06,650 --> 00:08:08,850
nhưng ông phải tiếp quản
một cơ quan tình báo
108
00:08:08,850 --> 00:08:12,970
đã đui mù trước cuộc
xâm lăng bất ngờ của Đức.
109
00:08:14,570 --> 00:08:16,350
Chiến dịch Barbarossa
110
00:08:16,350 --> 00:08:20,100
bắt đầu và mặc dù
mọi cảnh báo,
111
00:08:20,100 --> 00:08:23,120
Liên Xô vẫn chưa sẵn sàng.
112
00:08:36,550 --> 00:08:38,170
Trong những ngày đầu
của chiến tranh,
113
00:08:38,220 --> 00:08:41,070
mọi trú sứ Xô-viết
hợp pháp tại Đức,
114
00:08:41,070 --> 00:08:42,820
các đồng minh của Đức và
115
00:08:42,820 --> 00:08:45,400
tại những nước bị
phe Trục chiếm đóng
116
00:08:45,400 --> 00:08:48,720
đều bị chấm dứt và tất cả
nhân viên sứ quán đều bị
117
00:08:48,720 --> 00:08:50,570
trục xuất về Liên Xô.
118
00:08:50,700 --> 00:08:55,000
“Những giấy tờ này phải
bỏ vào túi ngoại giao.”
“Tiêu hủy tất cả thứ còn lại.”
119
00:09:00,120 --> 00:09:02,650
Tình báo quân sự Xô-viết
mất liên lạc với các điệp viên
120
00:09:03,050 --> 00:09:05,600
ở 11 nước Châu Âu.
121
00:09:06,200 --> 00:09:08,450
Bản thân số điệp viên
còn lại rất nhiều,
122
00:09:08,450 --> 00:09:12,170
nhưng nếu không thể liên hệ
được với Maskva thì họ
chẳng mấy hữu ích.
123
00:09:18,300 --> 00:09:21,350
Tình hình tương tự xảy ra
với mạng lưới tình báo
124
00:09:21,350 --> 00:09:23,900
được thiết lập dọc biên giới
125
00:09:23,900 --> 00:09:26,900
khi quân đội Đức càn tới.
126
00:09:26,900 --> 00:09:28,550
Liên lạc với hầu hết
các điệp viên này bị mất,
127
00:09:28,550 --> 00:09:30,350
mãi cho đến khi
chiến tranh kết thúc.
128
00:09:38,720 --> 00:09:43,000
Các điệp viên Xô-viết hoạt động
ở nước ngoài không có đủ điện đài
129
00:09:43,000 --> 00:09:47,120
hay điện đài viên giỏi.
Máy điện đài họ có
130
00:09:47,120 --> 00:09:50,270
rất cồng kềnh
và thiếu tin cậy,
131
00:09:50,270 --> 00:09:52,400
thậm chí thiếu cả ắc quy.
132
00:09:57,350 --> 00:10:00,870
Tầm hoạt động của các điện đài
này là không quá 1.000 km,
133
00:10:01,050 --> 00:10:05,220
tức là tín hiệu chỉ truyền đến
được miền Tây Liên Xô.
134
00:10:05,220 --> 00:10:07,650
Chúng không đủ mạnh
để tới Maskva,
135
00:10:07,650 --> 00:10:11,850
chứ đừng nói đến Kuibyshev,
nơi Tổng hành dinh tình báo
quân sự được sơ tán tới.
136
00:10:14,570 --> 00:10:17,670
Mật mã và bảng mã khóa
tình báo Xô-viết sử dụng
137
00:10:17,670 --> 00:10:21,420
hồi đầu chiến tranh rất
phức tạp và khó dùng.
138
00:10:22,620 --> 00:10:24,750
Phải mất nhiều thời gian
để mã hóa
139
00:10:24,750 --> 00:10:27,150
và giải mã thậm chí
các tin nhắn đơn giản nhất.
140
00:10:27,150 --> 00:10:34,600
Tín hiệu truyền đi cũng dễ
bị phản gián Đức bắt được,
141
00:10:34,720 --> 00:10:37,650
họ tuần tiễu khắp thành phố
với thiết bị dò hướng
142
00:10:37,650 --> 00:10:40,050
để định vị các máy
phát tín hiệu bất hợp pháp.
143
00:10:43,020 --> 00:10:45,670
Máy dò hướng dùng
ăng ten định hướng
144
00:10:45,680 --> 00:10:49,530
để tìm ra nguồn phát
tín hiệu điện đài.
145
00:10:50,000 --> 00:10:54,000
Đến giữa thập niên 1930
nó được dùng bởi hầu hết
các cơ quan phản gián.
146
00:10:56,670 --> 00:10:59,550
Ba xe tải trang bị
ăng ten định hướng di động
147
00:10:59,650 --> 00:11:02,120
sẽ tuần tra
khắp thành phố,
148
00:11:02,150 --> 00:11:03,770
lùng tìm các tín hiệu
điện đài bất thường.
149
00:11:04,150 --> 00:11:06,450
Họ sẽ căn 3 góc
theo tín hiệu
150
00:11:06,450 --> 00:11:10,670
để định vị chính xác
nơi đặt điện đài.
151
00:11:10,670 --> 00:11:14,220
Ngay khi xác định
được tòa nhà,
152
00:11:14,220 --> 00:11:17,820
các đội cảnh sát
sẽ bao vây
153
00:11:17,820 --> 00:11:19,670
và xông vào bắt điện đài viên.
154
00:11:24,800 --> 00:11:26,000
"Không được nhúc nhích!"
155
00:11:27,680 --> 00:11:29,700
“Lục soát tất cả các phòng.”
156
00:11:30,500 --> 00:11:32,500
“Đưa nó ra.”
157
00:11:33,700 --> 00:11:35,700
“Đứng lên!”
158
00:11:39,270 --> 00:11:43,400
Phản gián Đức khiến
điệp viên Xô-viết gần như
không thể liên lạc trực tiếp
159
00:11:43,400 --> 00:11:49,100
với Maskva. Liên lạc với
phần lớn số điệp viên
Xô-viết trước chiến tranh
160
00:11:49,100 --> 00:11:52,100
chỉ được nối lại
vào năm 1945,
161
00:11:52,100 --> 00:11:54,970
khi Hồng quân
tiến vào Đông Âu.
162
00:11:57,950 --> 00:12:01,720
Những cách liên lạc đối phó
tạm thời, thường là thông qua
người đưa tin,
163
00:12:01,720 --> 00:12:04,850
được sử dụng để chuyển
các thông tin tối quan trọng.
164
00:12:07,550 --> 00:12:09,300
“Tài liệu để trong vali.”
165
00:12:10,250 --> 00:12:15,250
“Chúng phải tới được Teheran.
Không muộn hơn tuần sau.”
166
00:12:20,020 --> 00:12:23,270
Nhưng trong khi vào thời bình
người đưa tin có thể đi lại
khắp Châu Âu,
167
00:12:23,270 --> 00:12:27,100
thời chiến mọi chuyện
lại khác hẳn.
168
00:12:27,820 --> 00:12:31,070
Họ không chỉ gặp nguy hiểm bị
Gestapo (Cơ quan Mật vụ SS) bắt,
169
00:12:31,070 --> 00:12:34,100
mà còn có thể bị giết trong
các cuộc tấn công vào tàu thủy,
170
00:12:34,100 --> 00:12:36,550
tàu hỏa, đường bộ.
171
00:12:41,100 --> 00:12:44,700
Tại Trung Hoa và Nhật, các điệp
viên Xô-viết vẫn hoạt động tích cực.
172
00:12:45,970 --> 00:12:50,270
Một vài “trú sứ” bất hợp pháp
tiếp tục hoạt động trong vùng
tạm chiếm
173
00:12:50,450 --> 00:12:51,720
ở Pháp, Bỉ và Hà Lan.
174
00:12:54,120 --> 00:12:57,250
Tình báo Xô-viết vẫn
khá hiệu quả ở Mỹ,
175
00:12:57,250 --> 00:13:00,620
Anh và các nước trung lập
Thụy Điển và Thụy Sĩ.
176
00:13:04,250 --> 00:13:10,570
Tháng 7/1941, Stockholm.
Ba tuần sau khi Đức tấn công
Liên Xô.
177
00:13:11,950 --> 00:13:14,850
Nhìn bên ngoài, nhà kho
trữ cá gần bến cảng
178
00:13:14,920 --> 00:13:17,950
của thủ đô Thụy Điển trông bình
thường như mọi tòa nhà khác
xung quanh.
179
00:13:20,250 --> 00:13:23,970
Nhưng bên trong nó
chứa một bí mật.
180
00:13:23,970 --> 00:13:26,100
Đây là nơi đóng của
Ban Mã hóa và Giải mã
181
00:13:26,100 --> 00:13:28,950
của Bộ Tổng tham mưu
Lực lượng Vũ trang Thụy Điển.
182
00:13:32,370 --> 00:13:35,750
Allan Nyblad, một người đưa tin
của Bộ Chiến tranh Thụy Điển,
183
00:13:35,750 --> 00:13:37,950
đang cân nhắc
mình phải làm gì.
184
00:13:38,770 --> 00:13:42,770
Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao
cho ông chuyển đi các giấy tờ
khẩn cấp và quan trọng nhất của họ.
185
00:13:42,770 --> 00:13:46,200
Ông là người tuân thủ nghiêm
ngặt các nguyên tắc và chỉ
186
00:13:46,200 --> 00:13:49,620
trao gói hàng của mình tận
đúng tay người nhận theo lệnh.
187
00:13:50,020 --> 00:13:54,650
Điều này không có gì quá đặc biệt,
nhưng Bộ trưởng Chiến tranh ấn
tượng với tính tuyệt đối của ông.
188
00:13:58,450 --> 00:14:01,120
Nhưng chính quyền Thụy Điển
không biết rằng Nyblad
189
00:14:01,350 --> 00:14:05,750
là cộng sản và là
điệp viên Xô-viết.
190
00:14:07,170 --> 00:14:10,100
Để thuận tiện cho
người đưa tin đi lại,
191
00:14:10,100 --> 00:14:12,920
xe đạp của họ
gắn biển số đặc biệt,
192
00:14:13,250 --> 00:14:16,120
tức là sẽ không bị cảnh sát
địa phương chặn lại.
193
00:14:16,550 --> 00:14:19,950
Một hôm, sau khi nhận được gói
hàng phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu,
194
00:14:19,950 --> 00:14:24,100
Allan Nyblad đạp xe qua khu
nhà kho yên tĩnh trên đường đi,
195
00:14:24,420 --> 00:14:28,520
nhưng đột ngột quay ngoặt về
một khu vắng vẻ rồi xuống xe.
196
00:14:30,020 --> 00:14:31,770
Sau khi kiểm tra
không bị ai theo dõi,
197
00:14:31,770 --> 00:14:34,050
ông tháo biển số xe
đặc biệt ra
198
00:14:35,270 --> 00:14:37,500
và thay bằng
biển xe thường.
199
00:14:44,800 --> 00:14:48,500
Ông đến một ngôi nhà hai tầng,
rồi bước vào.
200
00:14:57,350 --> 00:14:58,350
“Vào đi!”
201
00:15:01,800 --> 00:15:07,200
“Có một gói khẩn từ Bộ Tổng
tham mưu. Tôi phải chuyển nó
đến nơi sau 10 phút nữa.”
202
00:15:09,250 --> 00:15:15,750
“Ổn thôi. Chuẩn bị
máy ảnh đi, tôi sẽ lo mở gói.”
203
00:15:16,250 --> 00:15:19,820
Semyon Starostin làm việc chính
thức cho một công ty du lịch Nga.
204
00:15:20,620 --> 00:15:23,350
Ông cũng làm việc cho
tình báo Xô-viết.
205
00:15:25,470 --> 00:15:28,520
Semyon Kuzmich Starostin,
mật danh “Kent”,
206
00:15:28,900 --> 00:15:32,020
gia nhập Tình báo quân sự
Xô-viết năm 1937,
207
00:15:32,370 --> 00:15:35,120
và được gửi tới
Scandinavia năm 1939.
208
00:15:36,070 --> 00:15:38,500
Vỏ bọc ngụy trang của ông
bao gồm công việc
209
00:15:38,500 --> 00:15:40,600
làm giám đốc một
công ty du lịch Nga
210
00:15:40,600 --> 00:15:43,500
tổ chức du lịch tại Thụy Điển,
Na Uy và Đan Mạch,
211
00:15:43,850 --> 00:15:47,950
cũng như làm đại diện cho
hãng hàng không quốc gia
Liên Xô Aeroflot.
212
00:15:49,500 --> 00:15:51,020
Tháng 11/1941,
213
00:15:51,020 --> 00:15:54,870
ông quay về Liên Xô khi
một điệp viên của ông bị bắt.
214
00:16:04,000 --> 00:16:07,870
Khi tất cả tài liệu
đã được chụp xong,
215
00:16:07,870 --> 00:16:09,120
Starostin bỏ hết giấy tờ
vào một phong bì mới,
216
00:16:11,020 --> 00:16:15,300
ông có trong tay rất nhiều
con dấu của các cơ quan
của Thụy Điển.
217
00:16:17,900 --> 00:16:22,200
Giá trị của công tác tình báo
này thật khổng lồ. Nhờ “Kent”,
218
00:16:22,720 --> 00:16:27,570
Maskva nhận được báo cáo
hàng ngày về hoạt động của địch
dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông,
219
00:16:28,050 --> 00:16:30,650
do người Thụy Điển
vẫn theo dõi phía Đức
220
00:16:30,650 --> 00:16:33,850
và đã bẻ mã được họ.
221
00:16:34,800 --> 00:16:40,650
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ Đức
có kế hoạch xâm lược nước mình.
222
00:16:40,800 --> 00:16:44,150
Stockholm tìm cách phát hiện
trước dự định của Hitler.
223
00:16:44,650 --> 00:16:48,250
Giáo sư toán người Thụy Điển
Arne Beurling một mình làm việc
224
00:16:48,250 --> 00:16:52,870
với chỉ có giấy và bút chì
đã bẻ được mật mã quân sự và
ngoại giao của Đức
225
00:16:52,870 --> 00:16:57,250
trong vòng có 2 tuần. Điều này
cho phép Thụy Điển giải được
các liên lạc cáp ngầm
226
00:16:57,250 --> 00:17:01,250
đã mã hóa của Đức, và tất cả
những gì người Thụy Điển biết,
227
00:17:01,650 --> 00:17:04,400
giờ đều được gửi về
Maskva.
228
00:17:06,850 --> 00:17:08,500
Tháng 1/1942,
229
00:17:08,520 --> 00:17:15,000
Nyblad bị Thụy Điển tóm và
bị kết án 12 năm khổ sai.
230
00:17:15,350 --> 00:17:19,120
Nhưng đến lúc đó Maskva đã có
được thông tin làm cách nào
Thụy Điển bẻ được mã của Đức.
231
00:17:20,520 --> 00:17:23,300
Đến tháng 6, khi Đức
phát hiện ra
232
00:17:23,370 --> 00:17:25,300
Thụy Điển đã bẻ được mã,
233
00:17:25,370 --> 00:17:31,000
phía Xô-viết đã có thể tự
bẻ khóa được hệ mã mới của Đức.
234
00:17:38,600 --> 00:17:41,800
Ngày 18/10/1941,
Tokyo.
235
00:17:42,550 --> 00:17:46,620
Đế quốc Nhật và Liên Xô
đang giữ một tình trạng
236
00:17:46,700 --> 00:17:49,200
hòa hoãn đầy căng thẳng.
237
00:17:51,120 --> 00:17:55,400
Rạng sáng, cơ quan phản gián
Nhật tung một chiến dịch
238
00:17:55,400 --> 00:17:58,350
để đập tan mạng lưới
gián điệp Xô-viết bất hợp pháp.
239
00:17:58,870 --> 00:18:02,800
Một trong những người họ bắt
sáng hôm ấy là Richard Sorge,
240
00:18:02,800 --> 00:18:04,100
“trú sứ” của nhóm.
241
00:18:06,570 --> 00:18:08,850
Trong khi ông bị toán
áp tải cẩn mật dẫn đi,
242
00:18:08,850 --> 00:18:11,100
căn hộ của ông bị
lục soát kỹ lưỡng.
243
00:18:11,670 --> 00:18:14,520
Người Nhật tìm thấy
những tài liệu buộc tội,
244
00:18:15,070 --> 00:18:17,700
máy ảnh và một xấp ảnh
chụp bản sao.
245
00:18:21,200 --> 00:18:26,000
“Lục lại lần nữa!
Tìm kỹ tối đa.”
246
00:18:26,700 --> 00:18:30,950
Khi lục soát nhà của Max Clausen,
điện đài viên của nhóm,
247
00:18:31,000 --> 00:18:34,100
họ tìm thấy điện đài
và bảng mã.
248
00:18:34,000 --> 00:18:38,000
“Đã tìm thấy tài liệu khả nghi đây!
Lục kỹ hơn đi!”
249
00:18:41,000 --> 00:18:42,220
Richard Sorge,
cũng được biết
250
00:18:42,220 --> 00:18:46,150
với mật danh “Sonter”,
“Schwartz”, “Ramsay”
251
00:18:46,150 --> 00:18:49,950
và “Inson”, sinh ra tại Đông Nam
nước Nga, nhưng khi còn bé
252
00:18:49,950 --> 00:18:51,920
đã cùng gia đình
chuyển tới sống ở Đức.
253
00:18:52,220 --> 00:18:54,920
Sau khi chiến đấu bên phe Đức
trong Thế Chiến thứ I,
254
00:18:54,970 --> 00:18:56,950
Sorge trở thành một người
cộng sản nồng nhiệt
255
00:18:57,300 --> 00:19:02,350
và chuyển đến Maskva. Tại đây
ông được Tình báo quân sự
Xô-viết tuyển dụng
256
00:19:02,350 --> 00:19:05,820
rồi gửi trở lại Đức để
tạo vỏ bọc làm nhà báo
257
00:19:05,820 --> 00:19:09,370
và cảm tình viên Quốc Xã.
258
00:19:09,370 --> 00:19:14,220
Điều này đem lại nhiều thuận lợi
cho ông cho đến tận tháng 10/1941,
khi ông bị người Nhật bắt.
259
00:19:14,220 --> 00:19:16,550
Ba năm sau,
ông bị họ treo cổ.
260
00:19:17,420 --> 00:19:21,950
Năm 1964, ông được truy tặng
phần thưởng Nhà nước cao quý nhất,
261
00:19:21,950 --> 00:19:24,950
danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
262
00:19:26,970 --> 00:19:30,520
Mạng lưới của Sorge bao gồm
32 điệp viên người Nhật,
263
00:19:30,520 --> 00:19:34,400
4 người Đức, 2 người
Nam Tư và 1 người Anh.
264
00:19:35,150 --> 00:19:38,050
Nhóm bao gồm các điện đài
viên người Đức Bruno Wendt,
265
00:19:38,050 --> 00:19:42,770
và người kế nhiệm Max
Clausen, Gunther Stein,
266
00:19:43,050 --> 00:19:48,450
phóng viên tờ Manchester Guardian,
nhà báo Nam Tư Branko Vukelic,
nhà báo Nhật Miyagi Yotoku
267
00:19:48,450 --> 00:19:51,270
và nhà báo Nhật
Hatsumi Ozaki,
268
00:19:51,520 --> 00:19:54,550
một cố vấn của
Thủ tướng Nhật Konoe.
269
00:19:58,600 --> 00:20:01,820
Một nguồn tin đáng giá khác
của nhóm là Eugen Ott,
270
00:20:01,820 --> 00:20:04,850
Đại sứ Đức tại Nhật,
271
00:20:04,850 --> 00:20:06,120
và hoàn toàn tin cậy
Richard Sorge.
272
00:20:09,650 --> 00:20:12,800
Việc Sorge bị bắt và
nhóm Tokyo của ông
273
00:20:12,800 --> 00:20:16,450
bị bóc gỡ là một đòn cay đắng
với Tình báo Xô-viết.
274
00:20:16,450 --> 00:20:18,950
Ông vốn là nguồn tin
vô giá về các toan tính
275
00:20:18,950 --> 00:20:21,370
của Nhật và Đức
tại Viễn Đông.
276
00:20:23,250 --> 00:20:27,550
Vụ lớn nhất của Sorge là
xác minh được Nhật Bản
không có dự định
277
00:20:27,550 --> 00:20:32,100
tấn công Liên Xô trong năm
1941 như Stalin lo sợ.
278
00:20:33,950 --> 00:20:36,750
Từ Tokyo, tháng 9/1941
ông gửi về một điện tín:
279
00:20:38,000 --> 00:20:39,920
“Theo lời Ozaki Bí thư
Nội các Thủ tướng, ..."
280
00:20:39,920 --> 00:20:42,600
"... Chính phủ Nhật đã quyết định ..."
281
00:20:42,600 --> 00:20:45,720
"... sẽ không có hành động
chống Liên Xô trong năm nay, ..."
282
00:20:46,270 --> 00:20:51,100
"... nhưng quân đội vẫn đóng ở
Mãn Châu để phòng có thể
tấn công vào mùa xuân tới ..."
283
00:20:51,100 --> 00:20:53,800
"... nếu Liên Xô bị Đức đánh bại."
284
00:20:54,900 --> 00:20:57,000
"... Sau ngày 15/9, ..."
285
00:20:57,000 --> 00:21:00,570
"... vùng Viễn Đông của Liên Xô
có thể được xem là an toàn ..."
286
00:21:00,570 --> 00:21:01,900
"... không bị Nhật tấn công.”
287
00:21:04,600 --> 00:21:08,400
Thông tin vô cùng quan trọng
này đến vào lúc quân Đức
vừa tung đòn tấn công cuối cùng
288
00:21:08,500 --> 00:21:10,000
vào Maskva.
289
00:21:10,200 --> 00:21:14,900
Nó cho phép Bộ Tổng TM Stavka
rút nhanh 32 sư đoàn từ Sibiri
290
00:21:14,970 --> 00:21:18,500
và Viễn Đông về
cứu nguy cho thủ đô.
291
00:21:19,170 --> 00:21:21,520
Ngày 5/12/1941,
292
00:21:21,520 --> 00:21:25,100
các sư đoàn này dẫn đầu
cuộc tổng phản công
293
00:21:25,100 --> 00:21:28,320
xua quân Đức lùi xa
khỏi cửa ngõ Maskva.
294
00:21:29,270 --> 00:21:33,820
Đó là một chiến thắng quan trọng
mang công lớn của Richard Sorge.
295
00:21:37,400 --> 00:21:42,070
Tình báo quân sự Xô-viết
cũng có tai mắt của mình
tại Washington.
296
00:21:42,570 --> 00:21:48,200
Từ đây, Maskva cũng nhận được
tin tức về các dự định của Nhật
trong năm 1941.
297
00:21:48,200 --> 00:21:52,900
Lev Sergiev làm việc trong
Lãnh sự quán Liên Xô
298
00:21:52,900 --> 00:21:57,270
với vai lái xe cho tùy viên
quân sự. Ông cũng là một
điệp viên mang
299
00:21:57,270 --> 00:21:58,950
mật danh “Morris”.
300
00:21:58,950 --> 00:22:03,220
Suốt hè năm đó, ông gửi tin
về Maskva rằng Nhật không có
dự định
301
00:22:03,270 --> 00:22:05,520
tấn công Liên Xô.
302
00:22:06,770 --> 00:22:10,320
“16/7/1941.
Morris gửi Maskva. ..."
303
00:22:10,320 --> 00:22:13,920
"... Thái độ của Nhật
đối với Liên Xô là - ..."
304
00:22:13,920 --> 00:22:15,600
"... - chờ đợi và theo dõi.”
305
00:22:18,070 --> 00:22:20,720
Tháng 2/1942, Berlin.
306
00:22:22,550 --> 00:22:26,320
Người đứng đầu tình báo
quân sự Đức, Abwehr,
307
00:22:26,320 --> 00:22:29,500
là Đô đốc Wilhelm Canaris.
308
00:22:29,900 --> 00:22:32,620
Mùa xuân năm đó,
ông ta đang rất thất vọng.
309
00:22:34,850 --> 00:22:38,700
Hitler lên án Canaris là
không có được thông tin
chính xác về quy mô
310
00:22:38,700 --> 00:22:40,700
dự trữ của Liên Xô,
311
00:22:40,700 --> 00:22:44,470
và vì đã để cho Wehrmacht
bất ngờ trước cuộc phản công
312
00:22:44,470 --> 00:22:46,470
của Liên Xô mùa đông trước.
313
00:22:47,450 --> 00:22:52,320
Điều này và thời tiết khắc nghiệt
là lý do để các tướng lĩnh Đức
giải thích cho thất bại của họ.
314
00:22:55,720 --> 00:23:00,650
Đô đốc Wilhelm Canaris lên
làm xếp Abwehr từ năm 1933.
315
00:23:00,820 --> 00:23:03,070
Ông ta là người
chống cộng tận tâm,
316
00:23:03,070 --> 00:23:06,950
đó là lý do từ đầu ông ta ủng hộ
cho Hitler và Đảng Quốc Xã.
317
00:23:07,450 --> 00:23:12,600
Nhưng đến 1938, ông ta đã
tin rằng Hitler sẽ dẫn nước Đức
đến chỗ sụp đổ
318
00:23:12,770 --> 00:23:15,600
và bắt đầu tích cực âm mưu
chống lại Quốc trưởng.
319
00:23:15,600 --> 00:23:20,770
Năm 1942, ông ta lập tuyến
liên lạc bí mật với Tình báo Anh.
320
00:23:21,400 --> 00:23:24,270
SS đã nghi ngờ Canaris
321
00:23:24,270 --> 00:23:28,000
và ông ta bị cách chức
tháng 2/1944.
322
00:23:28,000 --> 00:23:31,650
Ông ta bị bắt sau âm mưu
đánh bom Hitler vào tháng 7/1944
323
00:23:31,650 --> 00:23:36,050
và bị tống vào trại tập trung
một tháng trước khi chiến tranh
kết thúc.
324
00:23:38,870 --> 00:23:40,470
Là người chống cộng,
325
00:23:40,470 --> 00:23:45,020
Canaris vô cùng quan tâm đến
cuộc chiến chống Liên Xô.
326
00:23:45,470 --> 00:23:49,070
Nhưng Abwehr vẫn không thể
cung cấp cho Bộ Tổng TM Đức
OKH các ước tính chính xác
327
00:23:49,070 --> 00:23:54,200
về sức mạnh quốc phòng
của Liên Xô trước khi Đức
bắt đầu cuộc xâm lược.
328
00:23:54,520 --> 00:23:58,270
Họ cũng không thể cài điệp viên
trong Bộ Tổng TM Liên Xô.
329
00:23:59,650 --> 00:24:03,920
NKVD vô cùng lão luyện trong
việc phát hiện gián điệp địch.
330
00:24:05,350 --> 00:24:09,950
Rất nhiều tù binh Liên Xô
được Abwehr tuyển dụng
làm gián điệp,
331
00:24:09,950 --> 00:24:12,100
rồi thả qua chiến tuyến,
332
00:24:12,550 --> 00:24:15,070
nhưng phần lớn bọn họ
đã biến mất tăm
333
00:24:15,070 --> 00:24:18,250
trong nội địa Liên Xô.
Một số ra tự thú,
334
00:24:18,350 --> 00:24:23,450
một số bị NKVD bắt, nhiều người
chỉ đơn giản là tìm về nhà.
335
00:24:26,370 --> 00:24:29,020
Rất ít trong số điệp viên ấy
quay trở về,
336
00:24:29,020 --> 00:24:31,500
và báo cáo của họ
chẳng có mấy giá trị.
337
00:24:33,770 --> 00:24:37,150
Canaris phấn khởi hơn
vào tháng 12/1941,
338
00:24:37,400 --> 00:24:42,670
khi nhận được một báo cáo đột xuất
của Trưởng ban tình báo Cụm
Tập đoàn quân Trung Tâm:
339
00:24:43,400 --> 00:24:44,920
“Tại Maskva tồn tại ..."
340
00:24:45,150 --> 00:24:48,050
"... tổ chức chống cộng ngầm
“Prestol” (Ngai vàng), ..."
341
00:24:48,050 --> 00:24:52,370
"... tìm cách lan truyền và nuôi
dưỡng thái độ chống cộng ..."
342
00:24:52,370 --> 00:24:53,350
"... trong dân chúng."
343
00:24:54,020 --> 00:24:56,850
"... Lãnh đạo là Sadovsky,
một thi sĩ bảo hoàng, ..."
344
00:24:56,850 --> 00:25:00,350
"... và vợ ông ta, từng là
ngự tiền phu nhân của
Hoàng hậu Nga. ..."
345
00:25:00,850 --> 00:25:04,700
"... Một thành viên của nó là
Demianov, cháu của một thủ lĩnh
Cossak ..."
346
00:25:04,700 --> 00:25:07,920
"... và gốc gác quý tộc,
đã liều vượt chiến tuyến ..."
347
00:25:07,920 --> 00:25:10,850
"... để báo cho chúng ta
về “Ngai vàng”.”
348
00:25:13,620 --> 00:25:17,850
Khi bị hỏi cung, Demianov
tuyên bố đã liên hệ
349
00:25:17,850 --> 00:25:20,200
với tình báo Đức
từ 1940.
350
00:25:20,900 --> 00:25:23,550
Người mà anh ta liên hệ
có tên là “Storsh”.
351
00:25:27,700 --> 00:25:32,270
Sau khi câu chuyện được kiểm
tra kỹ lưỡng, Demianov được
cho mật danh “Max” và gửi
352
00:25:32,320 --> 00:25:35,500
trở lại Liên Xô.
353
00:25:37,050 --> 00:25:38,920
Nhiệm vụ của Max
là tổ chức
354
00:25:39,000 --> 00:25:42,170
một nhóm chống Xô-viết hoạt
động ngầm tại các thành phố lớn,
355
00:25:42,570 --> 00:25:46,950
điều phối một chiến dịch
phá hoại và thiết lập mạng lưới
356
00:25:47,050 --> 00:25:50,670
thu thập tin tức về việc di chuyển
của lực lượng Hồng quân.
357
00:25:53,050 --> 00:25:57,850
Quan trọng nhất là Max
sử dụng quan hệ của mình
trong Bộ Tổng TM Stavka
358
00:25:57,850 --> 00:26:02,900
và Bộ Đường sắt để phát hiện
việc chuyển quân bằng đường sắt
359
00:26:03,000 --> 00:26:06,500
(Max được NKVD bố trí làm
sĩ quan liên lạc trong Sở chỉ huy
của Rokossovky-danngoc).
360
00:26:07,000 --> 00:26:08,350
Đến cuối chiến tranh,
361
00:26:08,420 --> 00:26:13,000
Richard Kauder, một sĩ quan
Abwehr, bị người Mỹ bắt được.
362
00:26:13,420 --> 00:26:16,470
Trong một buổi hỏi cung,
ông ta nói rằng
363
00:26:16,470 --> 00:26:21,150
trong năm 1942 và 43
Max đã cung cấp
364
00:26:21,450 --> 00:26:24,420
những tin tức rất giá trị thường
được chuyển thẳng lên Bộ Tổng
Tham mưu Wehrmacht.
365
00:26:26,050 --> 00:26:30,920
Người Đức tin rằng Max đã lọt
được vào Bộ Tổng TM Stavka
366
00:26:30,920 --> 00:26:32,950
làm sĩ quan liên lạc
cấp thấp.
367
00:26:34,520 --> 00:26:37,100
Kauder tuyên bố thêm rằng
“Ngai vàng”
368
00:26:37,100 --> 00:26:40,150
đã lập được nhiều nhóm
ở Maskva và Gorky,
369
00:26:40,150 --> 00:26:43,670
liên lạc trực tiếp với
Abwehr ở Berlin.
370
00:26:44,320 --> 00:26:48,600
Họ liên lạc bằng 3 điện đài
do người Đức cung cấp.
371
00:26:49,370 --> 00:26:53,850
Và tất những điều này đều
diễn ra ngay dưới mũi của
cơ quan
372
00:26:53,850 --> 00:26:55,850
phản gián Xô-viết khét tiếng.
373
00:26:58,600 --> 00:27:01,770
Mãi sau chiến tranh, người Đức
vẫn chưa phát hiện ra rằng
374
00:27:01,770 --> 00:27:06,400
tổ chức ngầm chống Xô-viết này
được dàn dựng bởi ...
375
00:27:06,400 --> 00:27:08,450
... NKVD.
376
00:27:13,700 --> 00:27:15,100
Tình báo Xô-viết đã
377
00:27:15,100 --> 00:27:18,720
kỹ lưỡng tạo ra các điệp viên
chống Xô-viết có vẻ đáng tin cậy
378
00:27:19,050 --> 00:27:21,750
rồi dùng họ để xâm nhập
vào Abwehr.
379
00:27:22,370 --> 00:27:25,220
Sau đó các điệp viên này
sẽ cung cấp cho địch các
thông tin giả.
380
00:27:26,570 --> 00:27:29,550
Nó được gọi là
“Chiến dịch Tu viện”.
381
00:27:32,320 --> 00:27:35,570
Từ thập niên 1930,
nhà thơ Boris Sadovsky
382
00:27:35,570 --> 00:27:39,050
đã được NKVD sử dụng
làm mồi nhử để dụ
383
00:27:39,050 --> 00:27:42,600
các kẻ chống đối chế độ
tiết lộ tình cảm chống Xô-viết.
384
00:27:42,600 --> 00:27:44,720
Đã có 3 trường hợp
385
00:27:44,720 --> 00:27:48,700
công an mật bắt bạn của ông,
nhưng bản thân nhà thơ
386
00:27:48,700 --> 00:27:50,420
luôn được tự do.
387
00:27:52,120 --> 00:27:55,220
Aleksandr Demianov đúng là
một cựu quý tộc và trở thành
388
00:27:55,220 --> 00:27:57,800
điệp viên
NKVD năm 1929.
389
00:27:57,800 --> 00:28:01,300
Ông thâm nhập vào
Tình báo Đức từ năm 1942
390
00:28:01,500 --> 00:28:04,620
và thậm chí được Abwehr
huấn luyện đặc biệt.
391
00:28:05,150 --> 00:28:09,620
Về sau ông được nhận Huân chương
Sao Đỏ vì thành tích đặc biệt
của mình
392
00:28:09,620 --> 00:28:11,420
trong Chiến dịch Tu viện.
393
00:28:13,370 --> 00:28:16,520
Trong khi đó, tình báo Đức
tiếp tục tìm cách tuyển dụng
394
00:28:16,520 --> 00:28:18,820
trong hàng ngũ tù binh
Xô-viết.
395
00:28:20,950 --> 00:28:23,050
Từ mùa xuân 1942,
396
00:28:23,100 --> 00:28:27,070
điệp viên của Canaris đều đặn
báo cáo cho ông ta về tiến triển
397
00:28:27,070 --> 00:28:29,520
mà các cựu Hồng quân này
đạt được.
398
00:28:29,520 --> 00:28:34,750
Tình báo Đức đã thành thạo
được kỹ thuật biến các
công dân Xô-viết
399
00:28:34,750 --> 00:28:37,220
chống lại Stalin và chủ nghĩa
cộng sản Liên Xô.
400
00:28:39,320 --> 00:28:43,350
Đô đốc hy vọng rằng các
tân binh này sẽ cung cấp
tin tức tình báo có giá trị,
401
00:28:43,900 --> 00:28:47,900
nhưng một lần nữa
ông ta phải thất vọng.
402
00:28:55,715 --> 00:29:00,000
Tháng 10/1942, Poltava, thuộc
vùng Ukraina bị chiếm đóng.
403
00:29:01,700 --> 00:29:05,770
Tại trường tình báo của
Cụm Abwehr 102,
404
00:29:06,070 --> 00:29:10,000
các cựu quân nhân Xô-viết
đang nghe giảng cách
để thu thập được bí mật
405
00:29:10,000 --> 00:29:13,500
quân sự trong khi hoạt động
sau phòng tuyến địch.
406
00:29:20,000 --> 00:29:23,000
Bỗng cửa mở và
hiệu trưởng bước vào.
407
00:29:29,800 --> 00:29:30,800
“Ngồi xuống.”
408
00:29:33,300 --> 00:29:38,600
“Tôi biết nhiều người các anh tin
rằng không thể sống sót trở về
sau khi vào lãnh thổ Liên Xô."
409
00:29:38,700 --> 00:29:40,700
“Và đây là một người như vậy.”
410
00:29:52,500 --> 00:29:56,500
“Người này là một anh hùng, đã
đích thân vượt qua chiến tuyến
để chiến đấu chống Stalin."
411
00:29:56,550 --> 00:29:58,750
“Anh đã vượt qua được
bao nhiêu lần?”
412
00:29:58,820 --> 00:30:00,950
“Ba lần.
Tất cả đều là sự thật.”
413
00:30:01,000 --> 00:30:04,350
Điều mà không ai trong
Abwehr biết là Piotr Pryadko,
414
00:30:04,350 --> 00:30:07,570
cựu sĩ quan chỉ huy trong
Tập đoàn quân 5 Xô-viết,
415
00:30:07,770 --> 00:30:11,200
đã thâm nhập vào
tình báo quân đội Đức
416
00:30:11,200 --> 00:30:12,920
theo lệnh của NKVD.
417
00:30:13,170 --> 00:30:16,300
Mọi thông tin ông cung cấp
cho địch thực ra đều là tin giả
418
00:30:17,220 --> 00:30:18,650
được soạn ở Maskva.
419
00:30:20,300 --> 00:30:23,170
Vai trò của Pryadko
trong Cụm Abwehr 102
420
00:30:23,320 --> 00:30:25,170
là làm giả giấy tờ
cho học viên.
421
00:30:25,620 --> 00:30:30,050
Ông luôn tạo ra các sai sót
nho nhỏ để đảm bảo điệp viên
sẽ bị bắt khi
422
00:30:30,050 --> 00:30:32,700
giấy tờ của người này
bị kiểm tra đúng cách.
423
00:30:32,850 --> 00:30:39,000
Tin giả của ông cũng khiến
nhiều sĩ quan tình báo cao cấp
424
00:30:39,100 --> 00:30:41,100
của Đức bị cách chức.
425
00:30:42,850 --> 00:30:44,770
Pryadko gửi về
các thông tin
426
00:30:44,770 --> 00:30:47,900
về 101 điệp viên
làm việc cho Đức
427
00:30:48,070 --> 00:30:50,270
và 24 thành viên
của Abwehr.
428
00:30:52,500 --> 00:30:54,450
Tháng 12/1942,
429
00:30:54,450 --> 00:30:56,250
ông trở về với Hồng quân.
430
00:30:56,650 --> 00:31:00,000
Sau đó ông được trao
Huân chương Cờ Đỏ,
431
00:31:00,000 --> 00:31:01,770
vì lòng dũng cảm
và anh dũng.
432
00:31:05,350 --> 00:31:07,220
Trong chiến tranh,
433
00:31:07,220 --> 00:31:10,850
Abwehr đã bị xâm nhập bởi
hàng trăm điệp viên Xô-viết.
434
00:31:11,270 --> 00:31:15,270
Họ thu thập thông tin về địch
và cài cắm thông tin giả
435
00:31:15,270 --> 00:31:17,920
về Hồng quân và các
dự định của Hồng quân.
436
00:31:20,050 --> 00:31:24,370
Họ đã thành công trong việc biến
chính cơ quan tình báo của Đức
437
00:31:24,520 --> 00:31:28,970
thành nguồn cung cấp tin giả
lớn nhất cho Bộ Tổng TM địch,
một cách đầy hiệu quả.
438
00:31:34,050 --> 00:31:37,600
Ngày 13/9/1943,
Paris.
439
00:31:39,070 --> 00:31:41,450
Một ô-tô chở hai người khách
440
00:31:41,500 --> 00:31:44,300
dừng trước một
cửa hàng dược.
441
00:31:45,270 --> 00:31:47,600
Một người rời xe
và bước vào.
442
00:31:51,750 --> 00:31:54,950
Một lát sau người kia
cũng bước vào.
443
00:31:59,920 --> 00:32:02,650
“Hắn chạy thoát qua cửa sau.
Ta phải phong tỏa khu vực này.”
444
00:32:05,370 --> 00:32:07,050
Người đang chạy là
Leopold Trepper,
445
00:32:07,100 --> 00:32:12,000
điệp viên Xô-viết đã đồng ý
làm việc cho Đức vài tuần trước.
446
00:32:13,270 --> 00:32:16,550
Nhưng giờ ông chuồn khỏi tay
những kẻ bắt mình.
447
00:32:18,100 --> 00:32:21,600
Đám người Đức điên tiết tổ chức
cuộc lùng sục khắp thành phố.
448
00:32:40,900 --> 00:32:43,000
Ngay từ 1938,
449
00:32:43,320 --> 00:32:47,020
Trepper đã lập ra một mạng lưới
tình báo Xô-viết rất mạnh
450
00:32:47,020 --> 00:32:48,020
ở khắp Bỉ,
451
00:32:48,020 --> 00:32:52,870
Hà Lan, Pháp và Ý.
Nó có khoảng 300 thành viên
452
00:32:52,920 --> 00:32:56,350
và Trepper cất nó trong đầu
cho tới khi bị Abwehr bắt
453
00:32:56,350 --> 00:32:58,200
tháng 11/1942.
454
00:33:01,070 --> 00:33:04,070
Thông qua nhóm của ông,
Liên Xô cũng nhận được
455
00:33:04,070 --> 00:33:06,070
tin tình báo từ
Rudolf Rössler.
456
00:33:07,200 --> 00:33:10,100
Rudolf Rössler,
mật danh “Lucy”,
457
00:33:10,100 --> 00:33:13,170
là một trong những điệp viên
giá trị nhất trong Thế Chiến thứ II.
458
00:33:13,400 --> 00:33:15,650
Là người Đức lưu vong
định cư tại Thụy Sĩ,
459
00:33:15,650 --> 00:33:19,170
ông làm việc cho Tình báo
Xô-viết vì mục đích lý tưởng.
460
00:33:21,720 --> 00:33:24,400
Ông cung cấp cho Liên Xô
tin tức quan trọng
461
00:33:24,400 --> 00:33:27,520
về chiến dịch tấn công
Kursk của Đức năm 1943.
462
00:33:27,600 --> 00:33:30,550
Nguồn cấp tin riêng của Rössler,
mật danh VYRDO,
463
00:33:30,670 --> 00:33:34,550
hiện vẫn là ẩn số.
Tại Phiên tòa Nuremberg,
464
00:33:34,550 --> 00:33:38,120
Alfred Jodl tham mưu trưởng
chiến dịch của Bộ Tổng TM
Lục quân OKW
465
00:33:38,250 --> 00:33:41,550
nói rằng thông tin về Chiến dịch
Kursk đến tay Maskva
466
00:33:41,550 --> 00:33:44,500
còn trước cả khi
nằm trên bàn của ông ta.
467
00:33:46,270 --> 00:33:49,700
Sau chiến tranh, Rössler
tiếp tục cung cấp cho Liên Xô
468
00:33:49,700 --> 00:33:53,350
thông tin thu thập được về
Tây Đức, khiến ông bị bắt và
469
00:33:53,350 --> 00:33:57,250
bị tù 1 năm tại Thụy Sĩ.
Ông qua đời chẳng bao lâu
470
00:33:57,350 --> 00:34:00,000
sau khi được thả năm 1958.
471
00:34:01,920 --> 00:34:05,450
Sau khi bắt được Trepper,
phản gián Đức
472
00:34:05,450 --> 00:34:08,350
thành công trong việc phá sập
hầu hết mạng lưới của ông.
473
00:34:11,000 --> 00:34:16,522
Tại Berlin, họ gọi
điện đài viên Xô-viết là pianist
(nghệ sĩ dương cầm).
474
00:34:18,470 --> 00:34:21,820
Mạng lưới của Trepper
liên quan đến ít nhất 10 pianist,
475
00:34:22,220 --> 00:34:25,250
do đó mang mật danh là
“Dàn nhạc Đỏ”.
476
00:34:29,400 --> 00:34:32,800
Phản gián Đức đã
ép được một số
477
00:34:32,800 --> 00:34:37,570
điện đài viên của “Dàn nhạc Đỏ”,
bao gồm cả Trepper,
478
00:34:37,720 --> 00:34:40,620
gửi tin giả về cho
Maskva.
479
00:34:46,420 --> 00:34:49,270
Đô đốc Canaris
đã có được đột phá.
480
00:34:49,620 --> 00:34:55,000
Phía Xô-viết không chỉ tin
vào tin giả mà còn đề nghị
cung cấp thêm.
481
00:35:12,300 --> 00:35:16,500
Sau khi trốn thoát, Trepper
với sự giúp đỡ của cộng sản Pháp,
482
00:35:16,500 --> 00:35:20,620
đã tìm cách báo về Maskva rằng
mạng lưới của mình đã bị khống chế.
483
00:35:22,850 --> 00:35:27,450
Thông tin nhận được từ
các điện đài viên nọ
cuối cùng đã được hiểu
484
00:35:27,450 --> 00:35:29,800
theo đúng bản chất.
485
00:35:35,600 --> 00:35:37,800
Tháng 11/1944,
486
00:35:39,450 --> 00:35:42,700
2 điệp viên Xô-viết đang
tiến hành theo dõi 24/24
487
00:35:42,700 --> 00:35:45,450
khúc bờ biển Na Uy.
488
00:35:52,370 --> 00:35:54,800
“Phía chân trời thấy có khói.”
489
00:35:57,950 --> 00:35:58,920
“Một thiết giáp hạm.”
490
00:35:59,770 --> 00:36:00,870
“Thêm mấy khu trục hạm."
491
00:36:01,520 --> 00:36:03,850
"Tốt. Ghi lại.
Ta gần gửi điện tín về.”
492
00:36:13,520 --> 00:36:16,270
12 tiếng sau,
một sĩ quan tham mưu
493
00:36:16,270 --> 00:36:19,050
bước vào phòng của trưởng ban
tình báo hải quân
494
00:36:19,050 --> 00:36:23,900
Mikhail Vorontsov.
“Máy bay trinh sát xác nhận
có tàu trong khu vực đó.”
495
00:36:25,150 --> 00:36:30,300
“Các anh thấy chiếc Tirpitz?”
“Người Anh đang tìm cách
diệt nó suốt 3 năm nay!”
496
00:36:40,270 --> 00:36:42,800
“Hãy cho đồng minh của
chúng ta thêm một cơ hội.”
497
00:36:55,400 --> 00:36:58,200
“Báo ngay cho người Anh
tọa độ của chiếc thiết giáp hạm.”
498
00:37:02,800 --> 00:37:07,520
Tirpitz là một trong vài
vũ khí đáng sợ còn lại
của Hải quân Đức.
499
00:37:07,850 --> 00:37:10,720
Cho đến lúc này, nó đóng
vai trò trực tiếp khá mờ nhạt
trong cuộc chiến.
500
00:37:11,050 --> 00:37:15,400
Nhưng sự có mặt của nó ở
Na Uy đe dọa các đoàn vận tải
Biển Bắc đến Liên Xô
501
00:37:15,550 --> 00:37:19,250
và ghìm chân một số lượng
đáng kể tàu chiến Anh.
502
00:37:20,020 --> 00:37:23,320
Là chị em với chiếc Bismarck,
503
00:37:23,320 --> 00:37:24,670
nó vẫn là một
đối thủ ghê gớm.
504
00:37:25,870 --> 00:37:28,350
Ngày 12/11/1944,
505
00:37:28,650 --> 00:37:31,770
các máy bay ném bom Lancaster
của Anh chở các quả bom
506
00:37:31,800 --> 00:37:35,020
Tallboy 5 tấn bay đến vịnh
Tromsø ở Na Uy.
507
00:37:39,670 --> 00:37:43,200
Người Đức không hay biết gì
về cuộc không kích,
508
00:37:43,200 --> 00:37:44,700
Luftwaffe không thấy
xuất hiện.
509
00:37:47,920 --> 00:37:51,250
Hai quả bom khổng lồ loại đó
đã trúng mạn trái của Tirpitz,
510
00:37:51,250 --> 00:37:55,170
phá một lỗ khổng lồ
trên vỏ tàu.
511
00:37:55,320 --> 00:37:58,520
Khi nước tràn vào, nó
nặng nề nghiêng rồi lật úp.
512
00:38:01,950 --> 00:38:04,320
Chiếc Tirpitz bị đánh đắm khiến
513
00:38:04,420 --> 00:38:08,220
1.000 trong số 1.700
thủy thủ đoàn thiệt mạng.
514
00:38:08,720 --> 00:38:11,800
Đó là chiếc đinh cuối cùng
đóng lên cỗ quan tài của
Hải quân Hitler.
515
00:38:21,600 --> 00:38:23,970
Kể từ mùa hè 1941,
516
00:38:24,150 --> 00:38:28,570
Liên Xô đã có điệp viên cắm tại
Na Uy, bao gồm các đơn vị
thu thập tin tức tình báo
517
00:38:28,570 --> 00:38:30,800
cho Hạm đội Bắc Hải
Xô-viết.
518
00:38:31,570 --> 00:38:34,550
Họ cũng tuyển dụng điệp viên
từ cộng đồng địa phương
519
00:38:34,800 --> 00:38:37,150
và cộng tác với
quân kháng chiến Na Uy.
520
00:38:41,770 --> 00:38:46,050
Một số điệp viên Na Uy được
gửi tới trại huấn luyện Xô-viết.
521
00:38:46,050 --> 00:38:49,450
Tại đó họ được hướng dẫn
cơ bản về liên lạc điện đài
522
00:38:49,600 --> 00:38:51,270
và thu thập tin tình báo.
523
00:38:56,000 --> 00:39:00,000
Điệp viên sau đó được đưa về
Na Uy bằng tàu ngầm.
524
00:39:03,000 --> 00:39:07,270
Sau khi đêm xuống, họ sẽ
được đổ bộ xuống một dải
bờ biển hẻo lánh.
525
00:39:08,670 --> 00:39:13,700
Các nhóm này cũng được
tàu ngầm tiếp tế và sau cùng
được bốc đi.
526
00:39:16,550 --> 00:39:19,920
Nhiệm vụ của các điệp viên
là theo dõi các đồn bốt,
527
00:39:20,050 --> 00:39:23,300
hoạt động chuyển quân
và tiếp vận của Đức.
528
00:39:23,700 --> 00:39:26,050
Họ cũng được lệnh
tìm kiếm các tàu chiến Đức
529
00:39:26,050 --> 00:39:27,800
neo trong các
vịnh biển Na Uy
530
00:39:27,850 --> 00:39:30,820
và chuyển tin tức ấy về
Murmansk.
531
00:39:34,470 --> 00:39:37,920
Không quân Liên Xô và Anh
có thể dùng tin tình báo này
532
00:39:38,370 --> 00:39:43,320
để không kích các mục tiêu
Đức có giá trị ở Na Uy và
Phần Lan.
533
00:39:48,420 --> 00:39:51,300
Sau khi nước Đức đầu hàng
tháng 5/1945,
534
00:39:51,300 --> 00:39:54,050
nhiều người đã có thể
ăn mừng nhẹ nhõm,
535
00:39:55,170 --> 00:39:57,800
nhưng cơ quan tình báo
vẫn không thể xả hơi.
536
00:39:58,570 --> 00:40:01,100
Đã rõ là tại Washington
và London,
537
00:40:01,100 --> 00:40:04,750
sự trỗi dậy của Liên Xô đã
tạo ra nỗi nghi ngờ to lớn.
538
00:40:05,820 --> 00:40:10,670
Việc thiếu tin cậy qua lại
nổi lên khi kẻ thù chung
đã bị đánh bại.
539
00:40:13,100 --> 00:40:15,350
Tháng 4/1945,
540
00:40:15,350 --> 00:40:19,600
Thủ tướng Anh Winston Churchill
ra lệnh cho Bộ tham mưu của mình
541
00:40:19,600 --> 00:40:23,850
nghiên cứu khả năng
tấn công Liên Xô,
542
00:40:24,120 --> 00:40:27,200
bằng chiến dịch mang
mật danh “Unthinkable”.
543
00:40:32,270 --> 00:40:36,470
Cuộc nghiên cứu được tiến hành
bởi Ban tham mưu hỗn hợp
các quân chủng Anh.
544
00:40:37,070 --> 00:40:40,700
Báo cáo vạch ra một kịch bản
theo đó 47 sư đoàn
545
00:40:40,770 --> 00:40:44,870
Anh Mỹ chiến đấu cùng
quân đội Ba Lan
546
00:40:45,020 --> 00:40:49,270
và 12 sư đoàn Đức được tái
vũ trang sẽ tiến hành cuộc
tấn công bất ngờ
547
00:40:49,270 --> 00:40:52,150
vào Hồng quân ở
Tây Bắc Châu Âu.
548
00:40:52,500 --> 00:40:54,770
Ban tham mưu kết luận rằng
nước Anh sẽ phải
549
00:40:54,770 --> 00:40:58,050
tiến hành một cuộc chiến
kéo dài và nhiều thiệt hại,
550
00:40:58,050 --> 00:41:03,800
và ngay cả thế thì khả năng
chiến thắng cũng vô vùng
đáng nghi ngờ.
551
00:41:09,200 --> 00:41:14,300
Trong lời nhận xét về bản
kế hoạch này, Churchill nói rằng
đây là một biện pháp
552
00:41:14,450 --> 00:41:17,750
phòng ngừa cho một tình huống
mang tính giả thuyết cao.
553
00:41:22,450 --> 00:41:24,950
Ngày 18/5/1945,
554
00:41:25,270 --> 00:41:28,920
tùy viên quân sự Liên Xô
ở London, Thiếu tướng
555
00:41:28,920 --> 00:41:32,550
Ivan Skliarov, đã chuyển
thông tin về Chiến dịch tối mật
556
00:41:32,620 --> 00:41:35,620
“Unthinkable”
về cho Maskva.
557
00:41:37,900 --> 00:41:40,020
Nguồn tin của Skliarov
558
00:41:40,120 --> 00:41:43,220
là điệp viên “X” mà
danh tính cho đến ngày nay
559
00:41:43,220 --> 00:41:48,320
vẫn còn là bí mật. Trong vài
tuần sau đó, cũng điệp viên
này đã chuyển cho
560
00:41:48,320 --> 00:41:51,750
Skliarov nhiều thông tin
có giá trị về Chiến dịch
“Unthinkable”,
561
00:41:51,750 --> 00:41:55,450
bao gồm cả quy mô lực lượng
Anh và Mỹ tham gia.
562
00:41:56,620 --> 00:41:59,700
Tháng 6/1945,
Nguyên soái Zhukov
563
00:41:59,700 --> 00:42:05,600
nhận được chi tiết về kế hoạch
này và lập tức bố trí lại
lực lượng Xô-viết ở Đông Đức.
564
00:42:05,600 --> 00:42:09,400
Ông ban lệnh cho Hồng quân
củng cố phòng thủ
565
00:42:09,400 --> 00:42:12,650
và theo dõi sát sao lực lượng
của đồng minh phương Tây.
566
00:42:15,820 --> 00:42:20,050
Churchill biết quân Anh Mỹ bị
Hồng quân vượt trội về quân số,
567
00:42:20,550 --> 00:42:23,900
quan trọng hơn ông ta biết rằng
dư luận công chúng
568
00:42:23,900 --> 00:42:27,450
vẫn chính trị đều không
đồng tình cho một cuộc chiến
như vậy vào năm 1945.
569
00:42:27,870 --> 00:42:31,020
Người Mỹ quan tâm hơn
đến việc nhờ Liên Xô
570
00:42:31,020 --> 00:42:35,650
giúp đánh Nhật.
Chiến dịch “Unthinkable” …
571
00:42:35,650 --> 00:42:37,200
... chỉ dừng lại như vậy.
572
00:42:39,370 --> 00:42:43,470
Tháng 7/1945, trong
Hội đàm Postdam,
573
00:42:43,470 --> 00:42:48,000
Tổng thống Mỹ Harry Truman
đã đồng ý với Thủ tướng Anh
574
00:42:48,000 --> 00:42:51,070
việc đề cập với Stalin rằng
Hoa Kỳ đã phát triển
575
00:42:51,070 --> 00:42:54,670
được thứ vũ khí mới
có sức hủy diệt phi thường.
576
00:42:57,920 --> 00:43:01,420
Truman đã ngạc nhiên trước
phản ứng của vị lãnh đạo Liên Xô.
577
00:43:02,050 --> 00:43:05,220
Vài phút sau,
trong khi đứng chờ xe,
578
00:43:05,220 --> 00:43:09,750
Churchill hỏi Truman
sự việc như thế nào.
“Ông ta còn không thèm hỏi lại”
579
00:43:09,750 --> 00:43:11,650
Truman trả lời.
580
00:43:14,150 --> 00:43:17,670
Các nguyên thủ Anh và Mỹ
cho rằng đơn giản là Stalin
581
00:43:17,670 --> 00:43:21,770
không hiểu về tầm quan trọng
của điều ông ta được đề cập.
582
00:43:22,500 --> 00:43:24,020
Nhưng họ đã lầm.
583
00:43:24,650 --> 00:43:28,400
Kể từ 1942,
tình báo Xô-viết
584
00:43:28,400 --> 00:43:31,820
đã thu thập tin tức về chương trình
bom nguyên tử của Đồng Minh.
585
00:43:36,070 --> 00:43:39,850
Có trên 10 điệp viên
cung cấp tin cho Liên Xô.
586
00:43:40,650 --> 00:43:43,250
Nhờ nỗ lực của họ,
Liên Xô
587
00:43:43,250 --> 00:43:47,420
đã thử quả bom nguyên tử
đầu tiên của mình ngay từ năm
1949.
588
00:43:49,750 --> 00:43:54,220
Tháng 2/1945, trong 1 bức thư
gửi cho vị tiền nhiệm của Truman,
589
00:43:54,220 --> 00:44:00,770
Tổng thống Roosevelt, Stalin
đã ám chỉ về hiệu quả của
tình báo Xô-viết:
590
00:44:01,520 --> 00:44:05,400
“Các vị tiền bối khôn ngoan,
tôi có thể đảm bảo với ngài, ..."
591
00:44:05,470 --> 00:44:10,120
"... đều rất chân thành và khiêm tốn
thực hiện trách nhiệm của mình. ..."
592
00:44:10,220 --> 00:44:12,420
"... Thận trọng và không gây
hiềm khích, ..."
593
00:44:12,420 --> 00:44:15,570
"... những người ấy đã tự chứng tỏ
được bản thân qua hành động, ..."
594
00:44:15,950 --> 00:44:17,720
"... rất nhiều lần.”
595
00:44:18,570 --> 00:44:23,300
Dịch phụ đề: Danngoc
Synctime: Duchuy2007.
63526
Can't find what you're looking for?
Get subtitles in any language from opensubtitles.com, and translate them here.